I. Khủng hoảng tài chính là gì?
Khủng hoảng tài chính trong tiếng anh là Financial crisis. Đây là thuật ngữ được sử dụng khi thị trường tài chính bị sụp đổ, đồng tiền mất đi giá trị và không còn khả năng luân chuyển vốn hiệu quả từ người tiết kiệm đền nhà đầu tư. Từ đó dẫn tới suy thoái kinh tế.
Khủng hoảng tài chính và khủng hoảng kinh tế có liên quan đến nhau. Tuy nhiên, đây lại là 2 thuật ngữ khác nhau.
Khủng hoảng kinh tế là sự thay đổi của nền kinh tế thực còn khủng hoảng tài chính là sự bất ổn của thị trường tiền tệ. Khủng hoảng kinh tế có thể kéo theo khủng hoảng tài chính.
Các loại khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính gồm 4 loại, bao gồm khủng hoảng ngân hàng, bóng bóng đầu cơ và sự sụp đổ, khủng hoảng tài chính quốc tế và cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn.
Khủng hoảng ngân hàng
1. Khủng hoảng ngân hàng xảy ra khi người gửi đồng loạt rút tiền khiến ngân hàng không có đủ số tiền đáp ứng do phần lớn số tiền đã được cho vay. Các ngân hàng dần mất khả năng hoàn trả các khoản nợ dẫn tới phá sản. Nếu không có bảo hiểm tiền gửi, người gửi tiền sẽ mất toàn bộ số tiền gửi của mình.
Nếu tình trạng này lan rộng, khủng hoảng mở rộng trên toàn hệ thống ngân hàng dẫn tới khủng hoảng tài chính. Nhiều cuộc khủng hoảng ngân hàng đã diễn ra trong quá khứ như sự sụp đổ của ngân hàng Bear Stearns năm 2008, người dân đồng loạt rút tiền gửi tại Ngân hàng TMCP Á Châu năm 2003…
2. Bong bóng đầu cơ và sự sụp đổ
Bong bóng đầu cơ là hiện tượng nhiều người đổ xô mua một loại tài sản nào đó với mục đích đầu cơ, thổi giá trị của tài sản lên cao hơn nhiều so với giá trị thực tế của nó.
Khi giá tăng lên quá cao, không có người mua hay các nhà đầu cơ đồng loạt bán ra, giá trị tài sản bị giảm mạnh (rớt giá). Lúc này, người mua và ngân hàng sẽ chịu thiệt hại nặng nề, tạo ra khủng hoảng tài chính.
Nhiều ví dụ bong bóng tài chính trong thực tế như bong bóng bất động sản gây khủng hoảng tài chính năm 2008, bong bóng dotcom năm 2000 – 2001, phố Wall sụp đổ năm 1929, bong bóng tài sản tại Nhật năm 1980, cơn sốt hoa tulip ở Hà Lan năm 1637…
3. Khủng hoảng tài chính quốc tế
Khi bong bóng đầu cơ tài chính bị vỡ sẽ dẫn tới phá giá tiền tệ và khủng hoảng cán cân thanh toán. Lúc này, các quốc gia không thể duy trì cơ chế tỷ giá cố định được nữa, đồng nội tệ bị mất giá, Chính phủ đối mặt với nguy cơ vỡ nợ quốc gia. Tình trạng này diễn ra tại nhiều nước sẽ tạo thành cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế.
tế, trên thế giới đã có nhiều cuộc khủng hoảng tương tự như cuộc khủng hoảng cuộc một số nước Châu Âu tham gia Cơ chế tỷ giá Châu Âu năm 1992 – 1993, khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 – 1998, khủng hoảng tài chính ở Nga năm 1998…
4. Cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn
Cuộc khủng hoảng kinh tế rộng hơn xảy ra khi nền kinh tế bị suy thoái trên diện rộng trong một thời gian dài. Kinh tế suy thoái là hiện tượng tăng trưởng GDP âm kéo dài trong 2 – 3 quý liên tục. Nếu tình trạng suy thoái vẫn tiếp diễn sẽ trở thành đại suy thoái.
Khi nền kinh tế suy thoái, các hoạt động kinh tế bị suy giảm hoặc đình trệ kéo dài ít nhất trong vài tháng. Điều này có thể nhận biết được thông qua các chỉ báo như sản xuất, nhân dụng, thu nhập thực và một số chỉ báo khác. Khi tình trạng tăng trưởng kinh tế giảm trên 10% thì được coi là đại suy thoái.
Trong quá khứ, một số cuộc đại suy thoái kinh tế đã bùng nổ như đại suy thoái 1929 – 1933, suy thoái kinh tế Mỹ giai đoạn 2008 – 2010. Những cuộc suy thoái này đều bắt nguồn từ sự sụp đổ của ngân hàng và thị trường tài chính.
II. Năm cuộc khủng hoảng tài chính tàn khốc nhất trong lịch sử
1. Khủng hoảng tín dụng năm 1772
Cuộc khủng hoảng này nổ ra khi các ngân hàng ở Anh mất khả năng thanh toán. Vào những năm 1760 – 1770, đế quốc Anh trở nên vô cùng giàu có nhờ thương mại và số lượng lớn lớn thuộc địa trên toàn thế giới. Vì vậy, các ngân hàng Anh có chính sách cho vay dễ dàng nhằm mở rộng tín dụng, thu lợi nhuận lớn.
Biến cố xảy ra vào ngày 8/6/1772, một đối tác lớn của các ngân hàng Anh là Alexander Fordyce đã bỏ trốn sang Pháp để trốn khoản nợ khổng lồ của mình. Tin tức lan nhanh, hàng ngàn người xếp hàng trước cửa các ngân hàng đòi rút tiền.
Ngân hàng thất thủ, không có khả năng thanh toán và 20 ngân hàng đã bị phá sản. Cuộc khủng hoảng còn lan rộng tới phần lớn các quốc gia Châu Âu. Đây được cho là nguyên nhân dẫn tới sự kiện “Tiệc trà Boston” và Cách mạng Mỹ.
2. Đại khủng hoảng 1929 – 1939
Cuộc khủng hoảng này xảy ra do bong bóng đầu cơ chứng khoán xuất hiện từ đầu năm 1920. Hàng nghìn người đổ xô vào thị trường chứng khoán với mong muốn làm giàu nhanh chóng. Họ đổ tất cả tài sản, thậm chí vay ngân hàng để đầu tư. Bong bóng ngày một lớn dần và không thể kiểm soát được.
Bước ngoặt đến vào ngày 24/10/1929, bảng niêm yết giá chứng khoán bất ngờ sụp đổ, thị trường chứng khoán Mỹ hỗn loạn. Sự hoảng loạn nhanh chóng lan rộng trên khắp đường phố New York và toàn nước Mỹ.
Sau sự việc này, cơn sốt chứng khoán chính thức chấm dứt, hàng trăm ngàn nhà đầu tư mất trắng, nhiều ngân hàng và công ty phá sản. Không dừng lại ở đó, hậu quả khủng hoảng tài chính này còn tiếp tục tàn phá nền kinh tế Mỹ trong 10 năm sau đó.
3. Cú sốc giá dầu OPEC 1973
Do xung đột với Mỹ ngày càng căng thẳng, các quốc gia vùng Vịnh (OPEC) tuyên bố ngừng vận chuyển, xuất khẩu dầu mỏ cho Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ.
Sự kiện này gây ra tình trạng thiếu dầu trầm trọng, giá dầu tăng cao đột biến. Thiếu nguồn cung năng lượng, giá năng lượng tăng cao, nền kinh tế bị đình trệ, lạm phát xuất hiện và ngày một trầm trọng hơn.
4. Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997
Thập niên 1990, một số quốc gia Châu Á như Thái Lan, Malaysia, Philippin, Indonesia, Hàn Quốc và Nhật Bản có tốc độ phát triển kinh tế thần tốc, đặc biệt trên thị trường tài chính. Rất nhiều nguồn vốn nước ngoài đổ xô về đây, nhiều nhất là nguồn đầu tư tài chính ngắn hạn.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, giá trị đồng nội tệ gắn chặt và phụ thuộc vào đồng đô la Mỹ, sản xuất cũng tập trung xuất khẩu đến thị trường Mỹ. Điều này giúp nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng nhưng lại bị động trước sự thay đổi của đô la Mỹ.
Giữa năm 1990, FED tăng lãi suất, đồng đô la tăng giá, nguồn đầu tư khắp nơi đổ về Mỹ. Để giữ chân nhà đầu tư, các quốc gia Đông Á tiếp tục tăng lãi suất, giá nội tệ vì thế cũng tăng theo. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế này phụ thuộc hoàn toàn vào bên ngoài, năng lực sản xuất trong nước không theo kịp.
Kết quả, từ tháng 7/1997, đồng Baht của Thái Lan bị giao bán tràn lan trên thị trường khiến giá trị Baht giảm mạnh. Chính phủ Thái Lan đã cố gắng mua vào nội tệ nhưng không giải quyết được vấn đề. Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ Thái Lan, sau đó lan rộng sang các nước ASEAN rồi đến Hàn Quốc và Nhật Bản.
5. Khủng hoảng tài chính năm 2008
Giai đoạn 2007 – 2008, nhận thấy giá nhà đất tăng cao, cơ hội kiếm lời lớn, nhiều người tham gia vào thị trường bất động sản. Các ngân hàng Mỹ cho số lượng lớn những người không có trả năng chi trả khoản nợ vay thế chấp mua nhà với lãi suất cao. Đây được cho là nguyên nhân khủng hoảng tài chính 2008.
Bong bóng nổ khi giá nhà chạm đáy, nhiều người mất trắng, không có khả năng hoàn trả khoản nợ đã vay. Kéo theo đó, các khoản nợ tín dụng không thể thanh toán khiến bong bóng tài chính nổ. Hàng triệu người bị mất nhà cửa, thị trường chứng khoán sụp đổ.
Hàng triệu người thất nghiệp, hệ thống ngân hàng khủng hoảng, nhất là ngân hàng Lehman Brothers – một trong những nhân hàng đầu tư lớn nhất thế giới lúc đó. Cuộc khủng hoảng này nhanh chóng lan rộng sang các quốc gia khác, nền kinh tế của nhiều quốc gia suy thoái.
III. Một số hướng giải quyết khủng hoảng tài chính
Có 2 hướng giải quyết phổ biến nhất cho tình trạng khủng hoảng tài chính như sau:
Thứ nhất, giải quyết khủng hoảng thanh toán nhanh chóng để giảm các thiệt hại. Buộc các doanh nghiệp, tổ chức, công ty đang vay vốn ngân hàng và có nguy cơ không trả được nợ phải đánh giá lại tài sản của mình, thực hiện cơ cấu lại nợ để giảm gánh nặng cho ngân hàng.
Thứ hai, nhanh chóng cung cấp thanh khoản cho thị trường và thuyết phục mọi người không bán tài sản của mình. Cách này giải quyết thiếu hụt thanh khoản và giảm nỗi hoảng sợ về thanh khoản của thị trường, theo đó:
- Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở, cung cấp lượng lớn thanh khoản cho thị trường. Ngân hàng trung ương sẽ cho các ngân hàng thương mại vay tiền để giải quyết thanh khoản. Từ đó, tiền sẽ được tự động phân bổ, lưu thông trong nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế hoạt động ổn định.
- Chính phủ cần xây dựng cơ chế bảo hiểm tiền gửi cho người dân, tránh xảy ra việc rút tiền ồ ạt. Tăng lãi suất tiền gửi là một biện pháp được sử dụng phổ biến lúc này.
Với ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và căng thẳng địa chính trị, nền kinh tế thế giới hiện nay đang gặp khó khăn khiến nhiều người lo lắng. Hy vọng những thông tin trong bài viết này giúp nhà đầu tư hiểu hơn về khủng hoảng tài chính và các nguyên nhân gây ra khủng hoảng. Qua đó có chiến lược đầu tư phù hợp, không để tâm lý hoang mang, lo lắng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của mình.
Nguồn: Finhay